- 1. Tứ nhiếp pháp là gì?
- 2. Có những lợi ích gì khi ta áp dụng tứ nhiếp pháp?
- 3. Tứ nhiếp pháp gồm những phương pháp nào?
1. Tứ nhiếp pháp là gì?
Theo nghĩa đen, Tứ Nhiếp Pháp bao gồm “Tứ” là 4; “Nhiếp” là thu phục; “Pháp” là phương pháp. Tiếng Phạn là Catvāri saṃgraha-vastūni, theo các nhà dịch thuật Trung Hoa thì từ này có nghĩa là Tứ chủng bả – cá pháp, Tứ nhiếp pháp, Tứ nhiếp sự, Tứ sự nhiếp pháp, Tứ tập vật, hay gọi đơn giản là Tứ nhiếp, Tứ sự, Tứ pháp.
Tứ nhiếp pháp là 4 phương tiện sử dụng để nhiếp phục, cảm hóa tâm người. Khi đã cảm hóa được họ, giúp họ có được niềm tin vào cuộc sống, mở mang trí tuệ, biết học Phật hoặc đi theo chánh đạo để có được cuộc sống an vui hạnh phúc đích thực.
- Bố thí: Chia sẻ cho người những gì người cần về vật chất lẫn tinh thần. Bố thí bao gồm: tài thí, pháp thí, vô úy thí.
- Ái ngữ: Thể hiện tình yêu bằng lời nói nhẹ nhàng, từ tốn với sự chân thành, đầy tình thương.
- Lợi hành: Đem lại lợi lạc thiết thực, giúp ích cho người qua những việc làm của thân, khẩu, ý.
- Đồng sự: Để thực hiện được mục đích giúp người, cứu đời, luôn đặt mình vào tình huống, hoàn cảnh của tha nhân để hiểu được người và yêu thương người nhiều hơn và ý nghĩa hơn.
2. Có những lợi ích gì khi ta áp dụng tứ nhiếp pháp?
2.1 Về phương diện cá nhân
Nhờ thế mà việc áp dụng tứ nhiếp pháp mang lại lợi ích cho người thực hành được nó trước tiên. Thông qua việc bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự ta sẽ gieo được những hạt giống thiện lành tốt đẹp cho mình trong hiện tại và mai sau.
Thực hành được tứ nhiếp pháp bản thân có thể hoàn thành hạnh nguyện tốt đẹp của mình, tự bản thân có thể dần rời xa lìa tà kiến vô minh, hiểu được chân tướng những sự việc đang xảy ra giữa cuộc đời, từ đó có thể tìm về với chánh kiến giải thoát.
2.2 Về phương diện gia đình
Mọi người cùng sống trong bầu không khí vui vẻ thuận thảo với nhau để làm tròn bổn phận và trách nhiệm của bản thân mình.
2.3 Về phương diện xã hội
Ví dụ như khi ta bố thí không chỉ có bản thân ta phát triển mạnh mẽ lòng bi mẫn mà còn là tấm gương cho mọi người noi theo. Số người tu tập bốn phương pháp sẽ tiếp tực kế thừa và phát triển. Nhờ vậy mà càng ngày càng có nhiều gương tốt tương tự, lan truyền sự tốt đẹp trong xã hội, giúp bài trừ cái xấu, gia tăng những điều tốt đẹp lên.
Nói tóm lại, 4 nhiếp pháp là pháp môn hiện thực đi vào đời nhằm nhiếp hóa, cảm phục được lòng người một cách có lợi ích thiết thực mà vẫn giữ được triết lý sống của đạo Phật.
3. Tứ nhiếp pháp gồm những phương pháp nào?
3.1. Bố Thí (Dāna)
- Bố thí bà la mật (Dānapāramī): Là bố thí bậc hạ. Đây là loại bố thí thuộc vật chất như tiền bạc, xe cộ, nhà cửa, ruộng vườn, thức ăn, đồ mặc, thuốc men, tiền bạc, ngọc ngà, châu báu. Bố thí những gì thuộc vật ngoại thân khác như ngai vàng, quốc độ, quyến thuộc, vợ con cũng thuộc loại dāna pāramī bậc hạ này.
- Bố thí thượng bà la mật (Dāna upapāramī): Là bố thí bậc trung. Đây là loại bố thí thuộc vật nội thân, là một phần nào đó của thân thể như tay, chân, tai, mắt. Có người cho 1 lá lách, 1 quả thận mà không chết, thuộc loại bố thí này.
- Bố thí thắng bà la mật (Dāna paramatthapāramī): Là bố thí bậc thượng, được xem là hình thức cao cả hơn tất cả, một người có thể xả thân, hy sinh cả tính mạng cho chúng sanh khác (Nếu bố thí tim, gan… mà sau khi bố thí, người ấy chết, cũng thuộc loại thắng bà la mật này).
- Tài thí: Tức là bố thí của cải, vật chất, tài sản, y phục, thuốc men, chỗ ngủ nghỉ hay cả việc đúc chuông, tượng, xây dựng liêu thất, tịnh xá, trường Phật học, chùa cảnh, bảo tháp… các công tác từ thiện xã hội.
- Pháp thí: Pháp là lời dạy của Đức Phật, thế nên Pháp thí tức là bố thí Pháp, nghĩa là vì ưa thích chánh pháp thì đem chánh pháp tinh thần mà thuyết giảng, khiến cho họ tin tưởng và nương vào đó mà chấp nhận đạo lý giải thoát, khuyến khích, hỗ trợ người khác tu tập, hành đạo.
- Cá nhân thí (pāṭipuggalikadāna): Tức là bố thí, cúng dường đến cho một vị mà mình đã lựa chọn. Do có cảm tình riêng hoặc có quan hệ huyết thống, dòng dõi hay quê quán…
- Tăng thí (saṅghadāna): Hay tập thể, đoàn thể thí. Đây là sự bố thí, cúng dường đến hội chúng Tăng-già, không phân biệt sư này sư kia, thường là 4 vị tỳ-khưu trở lên. Đôi khi chỉ một vị, nhưng vị ấy do Tăng chỉ định cũng được gọi là Tăng thí (bố thí đến Tăng).
3.2 Ái Ngữ (Piyavajja)
Ái ngữ là dùng những lời nói hiền hòa, từ ái, mềm mỏng, nhu thuận, dịu dàng… thế nhưng quan trọng nhất là những lời thật lòng, muốn tốt cho người khác chứ không chỉ là để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Nếu ái ngữ mà chỉ có mỹ từ nhưng lại thiếu chân và thiện là sẽ trở thành hình thức lừa mị, dối người.
Thế nhưng từ xưa tới nay, con người gây đau khổ cho nhau chỉ vì những lời nói. Trong cuộc sống hàng ngày, không ít lời thiếu tế nhị, thiếu tôn trọng, không cân nhắc suy nghĩ, làm tổn thương người khác, gây chia rẽ….
Thế nên ái ngữ là lời nói chân thật với lời nhân ái, gồm các hình thức như: không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói lời ác khẩu và lời thêu dệt. Những lời nói theo các hình thức trên được thể hiện nhiều tính chất tốt đẹp khác như chân thành, nhân ái, dịu dàng, êm tai… sẽ khiến cho người nghe thêm tin tưởng và cảm mến ta hơn.
Ví dụ như một người lãnh đạo nói lời thiếu tôn trọng cấp dưới thì người nghe không muốn làm theo, công việc sẽ kém hiệu quả, thậm chí công việc không thành công. Ngược lại, người đó nói với thái độ khiêm nhường, trân trọng thì cấp dưới dễ nghe và tin tưởng, làm theo hơn.
Trong gia đình cũng vậy, vợ chồng nói với nhau những lời nhẹ nhàng, tình cảm thì ít xảy ra căng thẳng, đổ vỡ. Tình cảm vợ chồng càng tương thân, tương ái hơn nữa.
Đại Hỷ được người chủ của mình chăm nuôi rất tốt. Tuy nhiên trong một lần cá cược với người bạn rằng Đại Hỷ có khả năng kéo được 100 cỗ xe cột chặt, anh ta bèn nói với Đại Hỷ: “Đồ ranh con, hãy kéo đi, đồ ranh con”.
3.3 Lợi Hành (Atthacariya)
Ví dụ như việc đắp đường, xây cầu, nấu cơm từ thiện cho các bệnh nhân nghèo, xây nhà tình thương, nhà dưỡng lão và trại mồ côi… Nhìn chung, những gì ta tin rằng có lợi cho người, cho đời thì ta làm, bất kể nó lợi ích hay lợi nhiều, miễn là có cơ hội thì ta làm.
Trong khi bố thí là cho đi một vật cụ thể thì lợi hành thiên về việc làm cho người khác. Lợi hành là phương tiện khiến cho mọi người đi vào Chánh pháp, từ chỗ bất thiện mà trở về chỗ lương thiện, từ đó mà có thể giải thoát khỏi khổ đau thế gian.
Quá trình áp dụng lợi thì cũng luôn tùy thuộc vào đối tượng mà thực hiện. Đối với những ai đang làm việc thiện rồi thì khuyến khích họ thăng tiến thêm trên con đường hành thiện, còn đối với những kẻ ác thì phải tìm cách phù hợp mới mong nhiếp phục để họ lìa ác.
3.4 Đồng Sự (Samānattatā)
Cuộc sống hòa mình, cùng chung buồn, vui, sướng, khổ với người là một nghệ thuật sống. Nhưng muốn hòa đồng như thế, chúng ta phải có lối sống có phong cách, có ngôn ngữ gần giống người mà mình muốn nhiếp phục.
Mỗi ngày đi khất thực không có gì, có khi chỉ được một ít thức ăn, nhiều lúc như thế ngài Anan không cầm được nước mắt vì rất thương đức Phật và chư vị Tỳ kheo.
Có lần ngài Anan mạnh dạn bạch với đức Phật nên đi đến một nơi khác có thời tiết thuận lợi, mùa màng bội thu để kiết hạ, Đức Phật bảo rằng các Tỷ kheo hãy thực hạnh hạnh kiên nhẫn chịu đựng, phải đồng cam cộng khổ với người dân vùng này để hóa độ cho họ.
Thấy tình hình này vẫn kéo dài, Mục Kiền Liên bèn xin đức Phật cho mình vận thần thông làm cho đất tơi xốp, mưa thuận gió hòa để dân ở đây có thóc lúa để sinh sống. Đức Phật từ chối, bảo Mục Kiền Liên không nên làm như vậy mà hãy kham nhẫn chịu đựng cùng với bà con vượt qua hoàn cảnh khó khăn này.