- 1. Chánh kiến là gì?
- 2. Lợi ích của Chánh kiến
- 3. Làm thế nào để có Chánh kiến
1. Chánh kiến là gì?
Trong bát chánh đạo, Chánh kiến đứng đầu, quan trọng nhất. Chánh kiến được hiểu là thấy chính xác, đúng đắn, chân thật, chưa lồng ghép cảm xúc, không thêm thắt, hay suy diễn.
Trong kinh Tương ưng bộ, Đức Phật giải thích: “Và này các Tỳ-kheo, thế nào là chánh tri kiến? Này các Tỳ-kheo, chính là trí về khổ, trí về khổ tập, trí về khổ diệt, trí về con đường đưa đến khổ diệt. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là chánh tri kiến” .
Người có Chánh kiến thì đủ khả năng hiểu biết, nhận rõ Thập thiện nghiệp và mười Bất thiện nghiệp qua thân khẩu ý. Chánh kiến là việc thấy nghe biết một cách thẳng ngay, công minh, đúng với sự thật khách quan. Trái ngược với Chánh kiến là Tà kiến:
- Chánh kiến: là thấy đúng đắn, chân thực như nó vốn là, không suy diễn.
- Tà kiến: là thấy sai, thấy lệch, có suy diễn, áp đặt theo ý kiến cá nhân, không thấy được cái chân thực, cái toàn diện, cái toàn bộ thực tại.
Trong Tăng Chi Bộ kinh đã nêu một ví dụ điển hình của Chánh kiến đó là một vị Bà la môn phê bình Tôn giả đệ tử Phật thiếu tôn kính đối với các vị Sa môn, vị này mới giải thích rằng: Đức Thế Tôn đã cho biết thế nào là trưởng lão, nếu một người già 80, 90 hay 100 tuổi mà đắm mình trong dục vọng, luôn luôn truy cầu các dục vọng, bị ngọn lửa dục vọng thiêu đốt, thì thiên hạ gọi người ấy là kẻ ngu si, không phải là trưởng lão.
Trái lại, nếu một người tuy trẻ tuổi nhưng lại chọn lối sống thanh khiết, trong trắng, không hưởng thụ các dục vọng, không truy cầu các dục vọng, không bị lửa dục vọng thiêu đốt, người như vậy đáng được gọi là bậc Hiền trí, là hàng trưởng lão.
- Mắt thấy sắc đúng như thực (nó sao thì thấy nó như vậy, đúng như mà nó là…): Chánh kiến
- Tai nghe âm thanh như thực (như trên): Chánh văn
- Mũi ngửi hương như thực (như trên): Chánh giác
- Lưỡi nếm vị như thực (như trên): Chánh giác
- Thân xúc chạm như thực (như trên): Chánh giác
- Ý biết pháp như thực (như trên): Chánh tri
2. Lợi ích của Chánh kiến
2.1 Diệt khổ
Khi hiểu Chánh kiến là gì và hiểu Nhân Quả cũng biết rõ rằng chính những hành động thiện ác của họ đã làm cho đời sống họ hạnh phúc hay khổ đau. Người ấy biết rằng nguyên nhân trực tiếp của những dị biệt và bất bình đẳng về sinh trưởng trong cuộc đời này là những nghiệp thiện hoặc ác của mỗi cá nhân trong những kiếp quá khứ hay trong chính kiếp hiện tại này mang lại.
Khi có Chánh kiến tức là Vô si, mình sẽ có được tư duy chân chánh, giúp cho mình nhận diện đúng vấn đề, từ đó có được hành động đúng, không gây khổ đau, không tàn hại môi sinh, không gây tác hại cho sự sống muôn loài.
Nói cách khác, những hành động này đã vượt qua chướng ngại tham, sân, si. Như thế ta đã thực hiện được chi phần giới chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng trong Bát chánh đạo.
Chánh tri kiến còn là tầm nhìn tận gốc rễ vấn đề để hành giả khỏi rơi vào lầm lạc khổ đau, khác với cách nhìn khủng hoảng, thì không có năng lực giải quyết vấn đề sẽ tìm cách đào tẩu khỏi thế giới thực tại, dẫn đến trình trạng thất bại, khổ đau;
Thế nên từ nay gặp bất cứ khổ đau nào, một chuyện bất như ý nào đó dù là bệnh tật, tai nạn, phá sản, chia ly,… ta chỉ cần vận dụng Chánh kiến để thấy rằng thân ngũ uẩn này là giả hợp, mọi thứ là ảo ảnh, có trong chốc lát rồi biến mất, thế nên đừng bám chấp vào khổ đau.
Đức Phật từng đưa ra một ví dụ cụ thể trong lần thuyết pháp đầu tiên với năm anh em Kiều Trần Như đó là không có Chánh kiến chúng ta như đang ở trong một ngục tối tới mức ta không nhận ra mình đang ở trong tù, và con người là tù nhân trong cái ngục tối đó. Thế nhưng thứ mà họ còn có đó là ý chí. Khi có một động lực thích hợp dấy lên, ý chí có thể được đánh thức và khởi động.
Các tôn giả hỏi thành quả của Chánh kiến, Đức Phật giải thích: Đó là sự giải trừ vô minh. Nó chống lại tà kiến. Và vô minh có nghĩa là không hiểu được các chân lý cao quý, nghĩa là không hiểu được sự hiện hữu của Khổ và cách diệt Khổ. Chánh kiến làm được điều đó.
2.2 Tránh xa mê tín
Nhờ có Chánh kiến chúng ta biết rằng mọi thứ đến từ mình, từ đó bác bỏ sự tin tưởng vào hiệu năng của các nghi thức và việc cúng tế; là bác bỏ quyền lực thần thánh của kinh sách; là từ bỏ mê tín và dị đoan.
Lợi ích của chánh kiến ra sao và tai hại của tà kiến là thế nào, nhờ vào trí tuệ đích thực chứ không phải dựa vào niềm tin mù quáng.
Đạo Phật không có tín điều, và tuyệt đối tôn trọng sự thực; do đó, chấp nhận hay không chấp nhận những lời tuyên bố của Đức Phật hoàn toàn thuộc quyên tự do tư tưởng của mỗi chúng ta. Ta hoàn toàn có quyền hoài nghi và đi tìm cách xác thực thông tin.
Chính từ đây mới có tư duy, hành động tốt đẹp, đây là tấm gương tốt nhất cho hàng con cháu, thế hệ trẻ noi theo.
2.3 Diệt trừ ác nghiệp
Sự tác ý đó giúp cho thân hành của mình được thanh tịnh nhờ vào những việc làm lành, tránh xa mọi công việc đưa đến hại mình, hại người như chú thuật, giết người, cướp của, lường gạt kẻ khác,… từ đó ta biết lựa chọn những nghề nghiệp mang lại lợi ích, an vui cho mình và cho người.
Chánh kiến có tác dụng thanh lọc tâm, loại trừ những tư tưởng xấu ác, những ác nghiệp sẽ không có cơ hội để phát sanh.
Nhờ sự hiểu biết chân chánh sẽ đưa đến tư tưởng, lời nói và hành động chân chánh. Nhờ Chánh kiến mà chúng ta diệt trừ được ác nghiệp, tinh tấn thực hành thiện pháp để hoàn thiện nhân cách hơn. Đây cũng là điều đạo đức xã hội hướng tới.
Điều này cho chúng ta thấy Chánh kiến có thể hướng dẫn chúng ta từ suy nghĩ, lời nói cho tới hành động đúng đắn, tránh xa ác nghiệp, tạo thêm những thiện nghiệp.
2.4 Tiến bộ về lĩnh vực tâm linh
Đây là bước vô cùng quan trọng của một người giúp họ đạt được những bước tiến về phương diện đạo đức và tâm linh. Chánh kiến đã mở lối và hướng chúng ta đến chứng ngộ Duyên Khởi Tánh và Tứ Ðế, có thấy được đạo mới có thể tu và đắc đạo được.
Như vậy, một người có Chánh kiến hiểu được vị trí của họ trong vũ trụ tiến bộ về tâm linh. Ngẫm về cuộc đời đi tìm chân lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một tấm gương về Chánh kiến cho chúng ta học hỏi.
Nhờ vào những thăng trầm, những kinh nghiệm tu hành đã trải qua, thậm chí suýt mất mạng vì tu khổ hạnh mà Ngài có được nhận thức sáng suốt, giúp Ngài đi đến con đường giác ngộ thoát mọi khổ đau. Đó là một quá trình dài trưởng thành về tâm linh mà Đức Thế Tôn học được từ qua nhiều kiếp sống khác nhau.
3. Làm thế nào để có Chánh kiến
Một thực tế mà ai cũng có thể nhận ra rằng ngay cả người tu Phật cũng không dễ gì mà có ngay chánh kiến ấy, vì còn nhiều tập khí trong nội tâm, được tích lũy từ vô lượng kiếp.
Không những thế, trong xã hội hiện nay, do tập quán nhiều đời, do văn hóa cục bộ hoặc thiếu nền tảng nhân văn, nhân bản, do tôn giáo thần vật cùng những học thuyết, chủ thuyết sai lầm làm cho con người không còn giữ được cái nhìn trong sáng, nguyên sơ.
Thế nên những nhận thức, quan điểm, phương pháp tu tập và hành đạo mà xa lìa những đặc điểm then chốt này sẽ lập tức rơi vào tà kiến, phi Chánh pháp.
Vấn đề đặt ra là mỗi người nên thiết lập Chánh kiến cho mình bằng cách nào? Văn-Tư-Tu là con đường làm cho tâm thông trí sáng. theo lời dạy của Thế Tôn, mỗi người con Phật dù là xuất gia hay tại gia cần phải đầy đủ pháp Học và pháp Hành thì mới có thể thành tựu Chánh kiến. Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ hay tức Giới, tức Định, tức Tuệ cũng khiến vô minh diệt, minh sanh.
Hiện nay ít Chư Tăng Ni thuyết pháp, giảng dạy trong các khóa lễ vì không nhận ra tầm quan trọng của việc giảng dạy giáo pháp. Nên giảng kinh, thuyết pháp, dạy người mà thực chất chính là xây dựng Chánh kiến cho mình.