Đạo mẫu là đạo riêng của dân tộc Việt Nam, mặc dù trong quá trình phát triển văn hóa, có sự du nhập và bị ảnh hưởng bởi Phật giáo hay Nho giáo nhưng Đạo mẫu vẫn giữ được vị trí quan trọng trong xã hội. Không lạ gì khi ngày nay, nhiều ngôi Đình, Đền Chùa của người Việt có sự kết hợp giữa thờ Phật và thờ Mẫu.
Trong văn hóa Việt, kết tinh đẹp nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu là hình ảnh Liễu Hạnh vừa uy nghiêm, vừa nhân từ, trong tư cách là tiên, là người, là thánh.
Trong đạo Mẫu, bà một trong những vị thần quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam, là người đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Nhiều làng xã và các đô thị ở phía bắc Việt Nam đều có đền thờ Bà.
Bà Chúa Liễu Hạnh được suy tôn là Thánh Mẫu tối cao, hóa thân của Đệ Nhất Thánh Mẫu Thượng Thiên, được thờ ở chính giữa trong Tam tòa Thánh Mẫu. Trong tín ngưỡng dân gian nói chung, bà là một trong Tứ bất tử, họ là những người sinh ra trong thời xã hội rối ren, sự xuất hiện của họ như là một chốn nương tựa cho người dân cơ cực về mặt tâm linh.
1. Lần giáng sinh thứ nhất
Từ đó, ông đặt tên con gái là Phạm Tiên Nga, cô bé xinh đẹp, thành thạo mọi việc trong nhà, người cửa và rất thích hỗ trợ bố mẹ. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì chỉ muốn được ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, quán xuyến mọi việc trong nhà.
Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, hiện có đền thờ Phụ thân và Mẫu thân của Phạm Tiên Nga).
Sau ba năm để tang cha mẹ, năm cô 35 tuổi, Phạm Tiên Nga đi khắp nơi làm việc thiện. Bà đã ủng hộ tiền của và công sức giúp đân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dày với Phủ Quảng Cung.
Nhớ công ơn của Phạm Tiên Nga, nhân dân xã Vi Nhuế đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Quảng Cung, tôn Bà làm Phúc thần, với Duệ hiệu là “Lê Triều Hiển Thánh, Tầm Thanh Cứu khổ, Tiên Nga tôn thần”.
2. Lần giáng sinh thứ hai
Lớn lên, Giáng Tiên càng xinh đẹp thêm, giỏi văn thơ, đánh đàn thổi sáo và soạn nhiều bài hát rất hay. Năm 18 tuổi, nàng kết duyên cùng Đào Lang, là con nuôi của một vị quan trí sĩ ở cùng làng. Vợ chồng nàng có 2 người con, một trai đặt tên là Nhân, một gái đặt tên là Hòa.
Đến ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577), Giáng Tiên đột ngột về trời giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ, khi đó bà vừa tròn 21 tuổi. Sau lần thoát xác trần này, Mẫu Liễu Hạnh cũng được người dân xây dựng đền thờ và lăng mộ ở Phủ Dầy, Nam Định.
3. Lần giáng sinh thứ ba
Ông Trần Đào lúc này đã tái sinh là Mai Thanh Lâm và hai người sớm kết đôi, họ cùng hạ sinh được một con trai tên là Cồn.
Sau đó, trong lúc giả dạng làm một cô hàng bán rượu ở Hồ Tây, Mẫu Liễu Hạnh đã tái ngộ Phùng Khắc Khoan. Cả 2 người cùng nhau ngâm thơ đối đáp rất thi vị hữu tình. Họ cùng vịnh bài thơ “Tây Hồ ngự quán” mà nay vẫn còn lưu truyền mãi.
Bà mất ngày 23 tháng Chạp năm Mậu Thân (1668) khi bà vừa tròn 18 tuổi.