Ma Ha Ca Diếp là ai mà Đức Phật cũng nể phục vì giữ hạnh “Đầu đà” tới cuối đời?

Ma Ha Ca Diếp là ai mà Đức Phật cũng nể phục vì giữ hạnh “Đầu đà” tới cuối đời?
By Tâm Linh
Th1 12

Ma Ha Ca Diếp là ai mà Đức Phật cũng nể phục vì giữ hạnh “Đầu đà” tới cuối đời?

(Lichngaytot.com) Ma Ha Ca Diếp là ai mà cho đến khi viên tịch ở tuổi 120 nhưng Ngài chưa một giây phút nào lơ là việc tu tập vì sợ chút phóng túng của mình sẽ lây nhiễm cho các đệ tử khác?
var _avlVar=_avlVar||[];_avlVar.push([“7af391dda74e457eb29539a64a2adf44”]);
Mục lục (Ẩn/Hiện)
  • 1. Thời niên thiếu và duyên lành xuất gia
  • 2. Sự tích về Ma Ha Ca Diếp
  • 3. Vì sao Ma Ha Ca Diếp là Đầu đà đệ nhất
  • 4. Tiền kiếp của Ma Ha Ca Diếp
  • 5. Ngài Ma Ha Ca Diếp viên tịch

 

Ma Ha Ca Diep la ai
 

1. Thời niên thiếu và duyên lành xuất gia

Ma Ha Ca Diếp hay còn gọi là Đại Ca Diếp sinh ra trong một gia đình dòng dõi Bà La Môn cao quý giàu có tại thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà. Mẹ hạ sinh Ngài khi đang du ngoạn tại vườn thượng uyển, dưới gốc cây Tất Bát La. 

Khi cậu bé vừa chào đời đã xuất hiện một tấm y tuyệt đẹp để bọc lấy thân Ngài. Mẹ tin rằng cậu bé có phúc nên chư Thiên cúng dường và đây chính là phước. Trước điềm lành này cùng việc hạ sinh dưới gốc cây Tất Bát La nên cha mẹ đặt tên cho Ngài là Tất Bát La Da Na (Thọ Hạ Sinh).

Lúc mới sinh, Ma Ha Ca Diếp đã rất khôi ngô, tuấn tú, phong thái đẹp như tượng vàng, trên thế gian chưa có đứa trẻ nào có hình tướng đẹp đến vậy.
 

Đại Ca Diếp không chỉ có phước tướng đẹp đẽ mà còn rất thông minh. Chỉ mới 8 tuổi đã thông thuộc văn học, toán thuật, thi họa, âm nhạc, thiên văn, tướng số, còn đoán trước thời vận trong mỗi ngày đêm có bao nhiêu điềm tốt xấu.

Cậu bé còn biết tất cả các loại tiếng: Tiếng đất chuyển động, tiếng sét, tiếng kêu của loài cầm thú,… các phép tế đàn 4 mùa, thấu hiểu thánh điển Vệ Đà.

Dường như cậu đã thấu tỏ mọi sự trong thế gian, có trí tuệ, tài lý luận đanh thép, nhạy bén, khôn ngoan. Thế nhưng càng lớn cậu càng không thích giao lưu với chúng bạn, chỉ thích ở riêng một mình. 

Thầy tướng xem tướng Ngài nói: “Đứa bé này đời trước có phước đức thù thắng, lẽ ưng xuất gia”. Cha mẹ ngài nghe vậy lại càng lo lắng, nhất quyết phải cưới vợ đẹp cho Ngài không còn muốn xuất gia.

 
Khi bước sang tuổi 22 – tuổi phù hợp để cưới vợ, mặc cho cha mẹ hết lời khuyên bảo nhưng Ngài từ chối vì chỉ muốn tu phạm hạnh, không ham thích cuộc sống vợ chồng nơi thế tục. Nhưng từ chối bố mẹ mãi không được, Ngài đành tự mình khắc tượng một người phụ nữ hình sắc như tượng vàng Diêm Phù Đàn để làm khó bằng việc yêu cầu rằng, nếu tìm được cô gái đúng hình tướng này thì mới chịu lấy vợ.
 
Điều lạ là cuối cùng cha mẹ Ngài cũng tìm được một cô gái tên Bạt Đà La với đúng hình tượng Ngài đề ra. Thế nên hai người cuối cùng tiến hành hôn lễ. 
 
Sau khi hỏi chuyện thì biết rằng Bạt Đà La cũng có chí nguyện tu phạm hạnh, không thích ngũ dục. Nhưng vì để làm yên lòng cha mẹ nhưng họ cùng chung sống trong căn phòng nhưng cả hai đều thúc liễm thân tâm, không xúc nhiễm với nhau.

Đêm đến, nếu Ngài nằm ngủ thì nàng Bạt Đà La đứng dậy đi kinh hành và ngược lại nếu nàng Bạt Đà La nằm ngủ thì Ngài lại đứng dậy đi kinh hành. Giờ đây chúng ta hãy tiếp tục sống theo phạm hạnh và dù là vợ chồng chúng ta cũng giữ sự thanh tịnh

 
Mãi 12 năm sau, khi cha mẹ đều từ giã cõi đời, chứng kiến cảnh khổ não chúng sinh: chúng sinh đi đứng qua lại chịu các khổ não không ngừng, những con bò cày chẳng từng tạm nghỉ,… Ngài và nàng Bạt Đà La quyết định xả tục xuất gia tu hành phạm hạnh. Ma Ha Ca Diếp rời gia đình đi tìm thầy học đạo, hứa sẽ trở về hướng dẫn Diệu Hiền khi tìm được minh sư.

Ngài xuất gia được một năm, một tối nọ ngài nằm mơ có một vị đầu tóc bạc bảo: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ra đời, hiện ở tịnh xá Trúc Lâm, ông nên đến đó để xin dạy pháp môn tu giải thoát.

 
Vào một buổi sáng, mặt trời vừa ló dạng, Đức Thế Tôn chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng chính lúc ấy, mặt trời vừa xuất hiện, Tất Bát La Da Na tìm lối xuất gia với tên gọi là Đại Ca Diếp.
 
Một hôm, Tôn giả Đại Ca Diếp đang ôm bình bát đi khất thực, với tướng mạo phi phàm, Ngài bị 2 người con gái tiến lại đưa đẩy, cố ý mê hoặc làm chặn đường của Ngài. Mọi người chỉnh trang phục thêm quyến rũ, bàn tán xì xào cách tán tỉnh Ngài.
 
Nhưng Ngài không màng tới bởi Ngài đang quyết đi tìm đạo sư, một lòng tu phạm hạnh, không còn mong cầu ngũ dục thế gian. Một hôm, khi đang đi khất thực thì bắt gặp hình ảnh Đức Phật đang ngồi thiền (lúc này Đức Phật đã thành tựu đạo quả); Ngài vui mừng, rạng rỡ và đảnh lễ, quỳ gối xin được làm đệ tử của Đức Phật.
 
– Bạch Đức Thế Tôn, con là đệ tử Thanh văn của Ngài. Cúi xin Thế Tôn làm thầy con, con là đệ tử Thanh văn của Thế Tôn.

Xem thêm  Thôn Bát Quái - di sản trăm năm của Gia Cát Lượng

Ngày sau ngài đến tịnh xá Trúc Lâm chí thành đảnh lễ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo: “Lành thanh, này tỳ kheo Ma Ha Ca Diếp, đến đây, Như Lai nhờ người cạo râu tóc cho ông”. Khi ngài được những vị tang trong đoàn cạo râu tóc xong, Đức Phật cho ngài thọ giới tỳ kheo và mặc y cà sa, không bao lâu ngài tu chứng được qủa vị A La Hán. Vì ngài tu khổ hạnh nên thân hình tiều tụy, ăn mặc dánh dưới, nên trong tăng đoàn ai ai cũng chê cười.

 
Sau khi trở thành đệ tử Phật, Ngài ngày đêm tinh tấn thực hành hạnh đầu đà và không lâu sau chứng đắc quả A La Hán, với danh đệ nhất đầu đà.
 
Thời điểm đó, Đức Phật đã cho phép người nữ xuất gia. Khi ấy, nhớ lại lời hứa thuở xưa với Bạt Đà La, Ngài đã nhập định, dùng thiên nhãn thì thấy rằng Bạt Đà La đang xuất gia tu học với ngoại đạo.

Vì thế nên Ngài liền tìm phương tiện giáo hóa để nàng quay về quy y Đức Phật. Nhờ tinh tấn thực hành Pháp mà chẳng bao lâu, Bạt Đà La đắc quả A La Hán, trở thành tỳ kheo Ni có Túc mạng thông bậc nhất bên ni chúng.

 
Với lòng quy kính Đức Thế Tôn và mong nguyện hoằng truyền giáo Pháp, sau khi Đức Phật nhập diệt, Tôn giả Đại Ca Diếp đã mở đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất. Nhờ đó, lời dạy của Đức Phật được kết tập thành hệ thống và được chính thức lưu truyền dưới các hình thức truyền tụng, ghi chép thành kinh văn trên lá, giấy… cho đến ngày nay.

 
arfAsync.push(“knye9xke”);

2. Sự tích về Ma Ha Ca Diếp

Tôn giả Đại Ca Diếp là một trong thập đại đệ tử của Đức Phật, ông luôn muốn đem phước điền đến cho chúng sinh nhưng Ngài có lập luận riêng rằng không khất thực cho nhà giàu có mà chỉ khất thực những nhà nghèo vì họ mới là người thiếu phước báu nhất.

Ngài khất thực mỗi ngày và chỉ tìm tới những người nghèo khó với tâm nguyện cho họ có cơ hội gieo trồng phước báu và thoát khỏi cảnh khổ đau. Suốt cuộc đời của Ngài có rất nhiều câu chuyện liên quan đến việc tế độ cho người có hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo vì trước khi đi khất thực, Ngài thường nhập định xem: “Ta nên gieo phước cho người nghèo nào”.

 
Sự tích được nhiều người kể nhiều nhất về Ma Ha Ca Diếp đó là khi Ngài đã cứu độ cho một bà lão ăn xin, vô cùng nghèo khổ.
 
Có lần, khi tôn giả Đại Ca Diếp đang trên đường vào thành Vương Xá, Ngài vô tình quan sát thấy một bà lão đơn đang co ro tại hang phân dơ bẩn bên cạnh một đống rác.

Bà đau ốm, gầy còm chỉ có mảnh cót tre nhỏ để che thân và không bao giờ có được một nữa ăn no đủ bao giờ. Nhờ nhập định, Ngài Ma Ha Ca Diếp biết được rằng bà lão vì nhiều kiếp không biết tạo phước nên phải chịu nghèo khổ như thế này.

Không những thế, Ngài cũng biết rằng bà lão cũng không sống được lâu nữa, thế nên nếu Ngài không đột thì bà mãi mãi không có cơ hội tạo phước.

 
Dúng lúc này thì một người đầy tớ của trưởng giả mang nước cơm đi đổ, mặc cho mùi hôi thối bốc lên nhưng vì quá đói nên bà vẫn cố gắng xin phần nước cơm ấy. Bà chỉ có 2 mảnh bát đã nứt ra trong tay và mang đi hứng đầy nước đầy mùi hôi ấy.

Quan sát thấy Đại Ca Diếp bước lại gần, sau đó Ngài từ tốn đưa bình bát về phía bà lão để xin đồ ăn.

 
– Hãy cho tôi một ít thức ăn sẽ được phước lớn.

Bà lão bất ngờ vì tự nhận mình là người nghèo nhất, không có gì bố thí cho tôn giả? . Thế Ngài có phép gì giúp tôi hết bệnh và hết nghèo đói chăng?”.

Ngài Ca Diếp bảo:

– “Tôi là một Tỳ kheo đang theo học đạo lý với Phật Thích Ca và đang tu khổ hạnh nên cũng đi xin như bà, nhưng lại đi bán giàu mua nghèo, bà hãy bán nghèo cho tôi để tạo nhiều phước báu giàu sang phú quý.
 
Bà lão ngần ngại hỏi:
 
– Tôn giả có vui lòng nhận ít nước cơm hôi này không?
 
– Lành thay! Lành thay!
 
Bà lão liền từ trong hang, lom khom lấy tô nước cơm và thành tâm dâng cúng vào bình bát của Ngài. Ngài nhận sự cúng dường rồi chú nguyện cho bà lão được phước báo an lành. Ngài đã uống hết bát nước cơm và thị hiện thần thông ngay trước mặt bà lão.
 
Ngài lại hỏi:
 
– Lão bà muốn ước nguyện gì không? Làm người giàu có ở thế gian, hay làm Chuyển luân thánh vương, hay Tứ thiên vương, Đế-thích… tất sẽ được như điều mong muốn.
 
– Con nguyện đem một chút phước nhỏ này mà được sanh thiên.
 
Ngài Ca Diếp nhận cúng dường rồi chú nguyện cho bà lão được phước báo và an lành.

Xem thêm  Thực hư chuyện cho đàn ông sờ ngực để may mắn hay kiêng nhặt tiền rơi tháng Cô hồn?

Trong ngày ấy, bà lão cũng lâm chung, được sanh về cõi trời Đao lợi thứ hai, oai đức rực rỡ, chấn động trời đất. Trời Đế thích giật mình kinh sợ, dùng thiên nhãn quán chiếu, biết Thiên nữ có phước báo ấy là do duyên tiền kiếp cúng dường ngài Ca Diếp.

3. Vì sao Ma Ha Ca Diếp là Đầu đà đệ nhất

Ma Ha Ca Diep Dau Da De Nhat
 
 
Hơn 30 tuổi, Ma Ha Ca Diếp vào rừng tìm đạo thì cũng là lúc Đức Phật Thích Ca thành đạo dưới cội Bồ Đề. Nghe tiếng Đức Phật, Ma Ha Ca Diếp tìm đến thành Vương xá, ngày ngày theo Thánh chúng đến nghe pháp.

Đức Phật nhìn xuống thấy và biết Ma Ha Ca Diếp là người có thể kế thừa đạo nghiệp của Như Lai.

 
Tại hội Linh Sơn, khi đức Phật đưa lên một cành hoa, Ma Ha Ca Diếp mỉm cười, Phật biết chánh pháp đã có người tâm đắc kế thừa sau này. Một hôm, sau khi mãn buổi thuyết pháp Phật đi đường tắt đón Ma Ha Ca Diếp ở một ngã đường, Ma Ha Ca Diếp chính thức bái yết Phật, theo Phật trở lại Tinh Xá Trúc Lâm, được Đức Phật đem pháp Tứ Đế, Thập nhị nhân duyên mà khai thị cho. 
 
Vốn thích tu hạnh “Đầu đà” sau khi gặp Phật, Ma Ha Ca Diếp tiếp tục thực hành pháp tu phạm hạnh.

Hạnh “đầu đà” có năng lực tịnh hóa tâm hồn, nhưng khi tu theo hạnh này cần giữ đủ 10 điều:

  • Chọn ở nơi hoang vắng
  • Sinh hoạt bằng phép trì bình
  • Thường ở tại một nơi
  • Ngày ăn một bữa;
  • Khất thực không phân biệt giàu nghèo;
  • Tài sản gồm có 3 y (áo), một bình bát;
  • Tư duy dưới gốc cây;
  • Thường ngồi giữa đồng trống;
  • Mặc áo phấn tảo;
  • Sống tại các bãi tha ma. 
Trong 10 điều kiện trên, Ma Ha Ca Diếp thực hành kiên định 9 điều, Ngài không muốn khất thực tới những nhà giàu có vì họ đã thừa phước. Ngài chỉ tập trung xin bố thí ở người nghèo vì họ thiếu phước đức ta cần đem phước điền cho họ gieo trồng.

Trọn giữ hạnh đầu đà, lúc nào Ma Ha Ca Diếp cũng ở trong rừng già, kinh hành hoặc tọa thiền dưới gốc cây, quán xương trắng ở bãi tha ma chẳng quản nắng mưa, sương gió… mãi đến lúc tuổi già râu tóc bạc phơ, thân thể gầy guộc vẫn không bao giờ chểnh mảng.

Ma Ha Ca Diếp lý giải. Hạnh “đầu đà” được Ma Ha Ca Diếp giữ cho đến hơi thở cuối cùng, không ai lay chuyển được, cho nên được tôn xưng là bậc “Đầu đà đệ nhất”.

 
Thấy Ma Ha Ca Diếp đạo cao đức trọng, Phật và giáo đoàn đều vị nể. 
 
Thực hành phạm hạnh đầu đà là trực tiếp củng cố giáo đoàn, gián tiếp lợi lạc chúng sinh, củng cố tăng đoàn là điều kiện thừa kế Đức Phật.

Phật dạy rằng: “Này các Tỳ kheo! Đại Ca Diếp luôn luôn lo ngại cho tiền đồ chính pháp. Thiên ma ngoại đạo hay thế lực cường quyền không thể phá hoại chính pháp, nội tình lộn xộn, Tăng đoàn hủ hóa thiếu phạm hạnh là điều kiện chính làm cho chính pháp tiêu diệt, “Trùng trong sư tử ăn thịt sư tử.”

Vì thế nếu Tăng đoàn được củng cố, giới đức trang nghiêm, nội tình ổn định hòa hợp tất yếu chính pháp được trường tồn. Để củng cố Tăng đoàn, sinh hoạt phải nghiêm túc, giới luật phải được tôn trọng giữ gìn, giới luật còn thì đạo ta còn. Người có thể chủ trì thừa kế chính pháp của ta phải là Ma Ha Ca Diếp”. 

 

4. Tiền kiếp của Ma Ha Ca Diếp

Được biết thân hình của tôn giả Ma Ha Ca Diếp luôn sáng rực hào quang, át hết các thứ ánh sáng khác và dường như hào quang đó có khả năng hút trọn mọi nguồn sáng khác.

Bất kể là thuộc nguồn sáng nào, ánh đèn, ánh mặt trời, mặt trăng, ánh sao hễ đến gần tôn giả thì đều bị lu mờ hết, thế nên Ngài còn được tôn xưng là “Ẩm Quang thị” – người uống ánh sáng.
 

Thuở xa xưa, sau thời đức Phật Tỳ Bà Thi nhập diệt, có một ngôi chùa đổ nát kia, có an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày trên mặt pho tượng bị lở khuyết, mặc sức cho nắng mưa vùi dập.

Lúc ấy có một cô gái nghèo, trông thấy cảnh chùa tang thương như vậy lấy làm xót xa mới lập nguyện xây chùa và giát vàng tượng Phật. Nhưng, trước cảnh nhà bần cùng, cô gái bèn đi các nơi xin cơm hóa duyên để lấy tiền mua vàng.

Trải qua mười năm hóa duyên như vậy, thấy số vàng dành dụm được có thể xây được chùa và trang nghiêm tượng Phật, cô gái đi kiếm một ông thợ có nghề làm vàng, để nhờ ông ta giát vàng tượng Phật.

Xem thêm  Bản kinh Vu Lan báo hiếu dễ đọc cho người tụng niệm tại gia

Trước lòng chí thành của cô gái này, người thợ vàng dần thấy hảo cảm với nàng và từ đó sẵn sàng bỏ công sức trang nghiêm tượng Phật mà không đòi tiền công phí nữa.

Khi công tác hoàn thành, người thợ vàng cầu hôn với nàng rồi cả hai phát nguyện đời đời kết nghĩa vợ chồng, cùng rủ nhau tu, quy y tam bảo xuất gia liễu đạo.

 
Tôn giả Đại Ca-Diếp chính là người thợ vàng năm xưa, tuy sống trong cảnh nghèo nàn mà biết phát tâm trang nghiêm tượng Phật, cho nên về sau, đời đời kiếp kiếp cả hai vợ chồng – tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang là tên hiệu của người vợ khi xuất gia – đều có thân hình một mầu vàng sáng.

Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoan hỷ đứng ra làm chu tất việc này. Nhân đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ làm vợ chồng, mà coi như đôi tri kỷ, chứ không vì tình dục.
 
Do phước báo đó nên 91 kiếp thân thể hai vị đều toàn màu vàng. Sau, sanh cõi Phạm Thiên, hết phước cõi Phạm Thiên chết, sanh về cõi này trong nhà Bà-là-môn giàu có hiện tại.  
 

5. Ngài Ma Ha Ca Diếp viên tịch

Ma Ha Ca Diep vien tich
 
Ngài già yếu, Phật nhiều lần khuyên: “Ca-diếp tuổi đã già, nên ở một chỗ nhận những thức cúng dường của thí chủ, chớ đi khất thực nhọc nhằn”.
 
Ngài bạch Phật: “Con tuy già yếu, song không dám ở một chỗ thọ sự cúng dường của thí chủ. Vì sợ e sau này, các Tỳ-kheo đời sau sẽ nói: ‘Đệ tử lớn của Phật trước kia vẫn ở một chỗ thọ sự cúng dường’, rồi họ sanh phóng túng”.
 

Lúc Phật Niết-bàn tại thành Câu-thi-na trong rừng Sa-la, thì ngài đang ở trong động Tất-bát-la trên núi Kỳ-xà-quật. Nghe tin Phật Niết-bàn, ngài và 500 đệ tử vội vã hướng về thành Câu-thi-na.

Đến nơi, đã để Phật vào kim quan, ngài buồn bã. Thầy trò đi nhiễu kim quan ba vòng, rồi đảnh lễ Phật. Khi ấy, hai bàn chân Phật duỗi ra ngoài kim quan để an ủi ngài. Ngài vuốt ve hai bàn chân Phật, lòng rất bi thảm.

 
Sau khi thiêu thân Phật xong, ngài tuyên bố với chúng Tỳ-kheo: “Xá-lợi của Phật giao cho trời, người xây tháp thờ làm ruộng phước, còn trách nhiệm Tỳ-kheo chúng ta phải lo kết tập kinh điển để lưu lại đời sau”.
 

Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn 7 ngày, Ma Ha Ca Diếp liền triệu tập hội nghị kết tập kinh điển trong suốt 3 tháng. Đại chúng nhất trí đề cử Ma Ha Ca Diếp làm chủ tọa.

Với lòng quy kính Đức Thế Tôn và mong nguyện hoằng truyền giáo Pháp, sau khi Đức Phật nhập diệt, Tôn giả Đại Ca Diếp đã mở đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất.

Nhờ đó, lời dạy của Đức Phật được kết tập thành hệ thống và được chính thức lưu truyền dưới các hình thức truyền tụng, ghi chép thành kinh văn trên lá, giấy… cho đến ngày nay.

 
Sau cuộc kết tập kinh điển, khoảng hai hoặc ba mươi năm sau, cảm thấy cơ thể đã già yếu, mệt mỏi vì đã trên trăm tuổi, Ma Ha Ca Diếp quyết định nhập Niết Bàn.

Ma Ha Ca Diếp tìm đến nơi A Nan đang du hóa để phú chúc pháp tạng, yêu cầu A Nan tiếp nối sứ mạng thừa kế truyền bá chính pháp, rồi đến 8 tháp thờ Xá Lợi phật để lễ lạy cúng dường.

– Khi Như Lai sắp vào Niết-bàn có dặn ta đem Chánh pháp nhãn tạng giao phó cho ông. Nay ta sắp ẩn, đúng lúc giao phó cho ông, ông phải khéo gìn giữ chớ để đoạn dứt.

Ngài nhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát của Phật đợi đến Phật Di-lặc ra đời sẽ trao lại, nên dự bị vào núi Kê Túc nhập định. Liền đó, ngài đi từ giả vua A-xà-thế và những người thân thuộc, rồi vào núi Kê Túc trải tòa cỏ ngồi an nhiên nhập định.

Vào năm 496 Tây Lịch,  Ma Ha Ca Diếp mang theo y bát của Phật đến núi Kê Túc, ngồi nhập định và nhập Niết Bàn, khi ấy Ngài 120 tuổi.

Xem thêm tin liên quan cùng chuyên mục:

Đức Phật nói về 4 nguyên nhân phá hủy PHƯỚC đức nhiều người dễ mắc phải!
Phật dạy: 3 nơi càng tiêu tiền lại càng giàu, biết và thực hành thì thịnh vượng kéo dài muôn kiếp sau
Phật dạy: Người PHÚC dày ĐỨC lớn đều có 4 đức tính này, phú quý theo suốt đời – Liệu bạn có không?

Nông dân nghèo 1 vợ 4 con!