- 1. Thời niên thiếu và duyên lành xuất gia
- 2. Sự tích về Ma Ha Ca Diếp
- 3. Vì sao Ma Ha Ca Diếp là Đầu đà đệ nhất
- 4. Tiền kiếp của Ma Ha Ca Diếp
- 5. Ngài Ma Ha Ca Diếp viên tịch
![]() |
1. Thời niên thiếu và duyên lành xuất gia
Khi cậu bé vừa chào đời đã xuất hiện một tấm y tuyệt đẹp để bọc lấy thân Ngài. Mẹ tin rằng cậu bé có phúc nên chư Thiên cúng dường và đây chính là phước. Trước điềm lành này cùng việc hạ sinh dưới gốc cây Tất Bát La nên cha mẹ đặt tên cho Ngài là Tất Bát La Da Na (Thọ Hạ Sinh).
Lúc mới sinh, Ma Ha Ca Diếp đã rất khôi ngô, tuấn tú, phong thái đẹp như tượng vàng, trên thế gian chưa có đứa trẻ nào có hình tướng đẹp đến vậy.
Cậu bé còn biết tất cả các loại tiếng: Tiếng đất chuyển động, tiếng sét, tiếng kêu của loài cầm thú,… các phép tế đàn 4 mùa, thấu hiểu thánh điển Vệ Đà.
Dường như cậu đã thấu tỏ mọi sự trong thế gian, có trí tuệ, tài lý luận đanh thép, nhạy bén, khôn ngoan. Thế nhưng càng lớn cậu càng không thích giao lưu với chúng bạn, chỉ thích ở riêng một mình.
Thầy tướng xem tướng Ngài nói: “Đứa bé này đời trước có phước đức thù thắng, lẽ ưng xuất gia”. Cha mẹ ngài nghe vậy lại càng lo lắng, nhất quyết phải cưới vợ đẹp cho Ngài không còn muốn xuất gia.
Đêm đến, nếu Ngài nằm ngủ thì nàng Bạt Đà La đứng dậy đi kinh hành và ngược lại nếu nàng Bạt Đà La nằm ngủ thì Ngài lại đứng dậy đi kinh hành. Giờ đây chúng ta hãy tiếp tục sống theo phạm hạnh và dù là vợ chồng chúng ta cũng giữ sự thanh tịnh
Ngài xuất gia được một năm, một tối nọ ngài nằm mơ có một vị đầu tóc bạc bảo: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ra đời, hiện ở tịnh xá Trúc Lâm, ông nên đến đó để xin dạy pháp môn tu giải thoát.
Ngày sau ngài đến tịnh xá Trúc Lâm chí thành đảnh lễ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo: “Lành thanh, này tỳ kheo Ma Ha Ca Diếp, đến đây, Như Lai nhờ người cạo râu tóc cho ông”. Khi ngài được những vị tang trong đoàn cạo râu tóc xong, Đức Phật cho ngài thọ giới tỳ kheo và mặc y cà sa, không bao lâu ngài tu chứng được qủa vị A La Hán. Vì ngài tu khổ hạnh nên thân hình tiều tụy, ăn mặc dánh dưới, nên trong tăng đoàn ai ai cũng chê cười.
Vì thế nên Ngài liền tìm phương tiện giáo hóa để nàng quay về quy y Đức Phật. Nhờ tinh tấn thực hành Pháp mà chẳng bao lâu, Bạt Đà La đắc quả A La Hán, trở thành tỳ kheo Ni có Túc mạng thông bậc nhất bên ni chúng.
2. Sự tích về Ma Ha Ca Diếp
Ngài khất thực mỗi ngày và chỉ tìm tới những người nghèo khó với tâm nguyện cho họ có cơ hội gieo trồng phước báu và thoát khỏi cảnh khổ đau. Suốt cuộc đời của Ngài có rất nhiều câu chuyện liên quan đến việc tế độ cho người có hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo vì trước khi đi khất thực, Ngài thường nhập định xem: “Ta nên gieo phước cho người nghèo nào”.
Bà đau ốm, gầy còm chỉ có mảnh cót tre nhỏ để che thân và không bao giờ có được một nữa ăn no đủ bao giờ. Nhờ nhập định, Ngài Ma Ha Ca Diếp biết được rằng bà lão vì nhiều kiếp không biết tạo phước nên phải chịu nghèo khổ như thế này.
Không những thế, Ngài cũng biết rằng bà lão cũng không sống được lâu nữa, thế nên nếu Ngài không đột thì bà mãi mãi không có cơ hội tạo phước.
Quan sát thấy Đại Ca Diếp bước lại gần, sau đó Ngài từ tốn đưa bình bát về phía bà lão để xin đồ ăn.
Bà lão bất ngờ vì tự nhận mình là người nghèo nhất, không có gì bố thí cho tôn giả? . Thế Ngài có phép gì giúp tôi hết bệnh và hết nghèo đói chăng?”.
Ngài Ca Diếp bảo:
Trong ngày ấy, bà lão cũng lâm chung, được sanh về cõi trời Đao lợi thứ hai, oai đức rực rỡ, chấn động trời đất. Trời Đế thích giật mình kinh sợ, dùng thiên nhãn quán chiếu, biết Thiên nữ có phước báo ấy là do duyên tiền kiếp cúng dường ngài Ca Diếp.
3. Vì sao Ma Ha Ca Diếp là Đầu đà đệ nhất
![]() |
Đức Phật nhìn xuống thấy và biết Ma Ha Ca Diếp là người có thể kế thừa đạo nghiệp của Như Lai.
Hạnh “đầu đà” có năng lực tịnh hóa tâm hồn, nhưng khi tu theo hạnh này cần giữ đủ 10 điều:
- Chọn ở nơi hoang vắng
- Sinh hoạt bằng phép trì bình
- Thường ở tại một nơi
- Ngày ăn một bữa;
- Khất thực không phân biệt giàu nghèo;
- Tài sản gồm có 3 y (áo), một bình bát;
- Tư duy dưới gốc cây;
- Thường ngồi giữa đồng trống;
- Mặc áo phấn tảo;
- Sống tại các bãi tha ma.
Trọn giữ hạnh đầu đà, lúc nào Ma Ha Ca Diếp cũng ở trong rừng già, kinh hành hoặc tọa thiền dưới gốc cây, quán xương trắng ở bãi tha ma chẳng quản nắng mưa, sương gió… mãi đến lúc tuổi già râu tóc bạc phơ, thân thể gầy guộc vẫn không bao giờ chểnh mảng.
Ma Ha Ca Diếp lý giải. Hạnh “đầu đà” được Ma Ha Ca Diếp giữ cho đến hơi thở cuối cùng, không ai lay chuyển được, cho nên được tôn xưng là bậc “Đầu đà đệ nhất”.
Phật dạy rằng: “Này các Tỳ kheo! Đại Ca Diếp luôn luôn lo ngại cho tiền đồ chính pháp. Thiên ma ngoại đạo hay thế lực cường quyền không thể phá hoại chính pháp, nội tình lộn xộn, Tăng đoàn hủ hóa thiếu phạm hạnh là điều kiện chính làm cho chính pháp tiêu diệt, “Trùng trong sư tử ăn thịt sư tử.”
Vì thế nếu Tăng đoàn được củng cố, giới đức trang nghiêm, nội tình ổn định hòa hợp tất yếu chính pháp được trường tồn. Để củng cố Tăng đoàn, sinh hoạt phải nghiêm túc, giới luật phải được tôn trọng giữ gìn, giới luật còn thì đạo ta còn. Người có thể chủ trì thừa kế chính pháp của ta phải là Ma Ha Ca Diếp”.
4. Tiền kiếp của Ma Ha Ca Diếp
Bất kể là thuộc nguồn sáng nào, ánh đèn, ánh mặt trời, mặt trăng, ánh sao hễ đến gần tôn giả thì đều bị lu mờ hết, thế nên Ngài còn được tôn xưng là “Ẩm Quang thị” – người uống ánh sáng.
Lúc ấy có một cô gái nghèo, trông thấy cảnh chùa tang thương như vậy lấy làm xót xa mới lập nguyện xây chùa và giát vàng tượng Phật. Nhưng, trước cảnh nhà bần cùng, cô gái bèn đi các nơi xin cơm hóa duyên để lấy tiền mua vàng.
Trải qua mười năm hóa duyên như vậy, thấy số vàng dành dụm được có thể xây được chùa và trang nghiêm tượng Phật, cô gái đi kiếm một ông thợ có nghề làm vàng, để nhờ ông ta giát vàng tượng Phật.
Trước lòng chí thành của cô gái này, người thợ vàng dần thấy hảo cảm với nàng và từ đó sẵn sàng bỏ công sức trang nghiêm tượng Phật mà không đòi tiền công phí nữa.
Khi công tác hoàn thành, người thợ vàng cầu hôn với nàng rồi cả hai phát nguyện đời đời kết nghĩa vợ chồng, cùng rủ nhau tu, quy y tam bảo xuất gia liễu đạo.
5. Ngài Ma Ha Ca Diếp viên tịch
![]() |
Đến nơi, đã để Phật vào kim quan, ngài buồn bã. Thầy trò đi nhiễu kim quan ba vòng, rồi đảnh lễ Phật. Khi ấy, hai bàn chân Phật duỗi ra ngoài kim quan để an ủi ngài. Ngài vuốt ve hai bàn chân Phật, lòng rất bi thảm.
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn 7 ngày, Ma Ha Ca Diếp liền triệu tập hội nghị kết tập kinh điển trong suốt 3 tháng. Đại chúng nhất trí đề cử Ma Ha Ca Diếp làm chủ tọa.
Nhờ đó, lời dạy của Đức Phật được kết tập thành hệ thống và được chính thức lưu truyền dưới các hình thức truyền tụng, ghi chép thành kinh văn trên lá, giấy… cho đến ngày nay.
Ma Ha Ca Diếp tìm đến nơi A Nan đang du hóa để phú chúc pháp tạng, yêu cầu A Nan tiếp nối sứ mạng thừa kế truyền bá chính pháp, rồi đến 8 tháp thờ Xá Lợi phật để lễ lạy cúng dường.
Ngài nhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát của Phật đợi đến Phật Di-lặc ra đời sẽ trao lại, nên dự bị vào núi Kê Túc nhập định. Liền đó, ngài đi từ giả vua A-xà-thế và những người thân thuộc, rồi vào núi Kê Túc trải tòa cỏ ngồi an nhiên nhập định.
Vào năm 496 Tây Lịch, Ma Ha Ca Diếp mang theo y bát của Phật đến núi Kê Túc, ngồi nhập định và nhập Niết Bàn, khi ấy Ngài 120 tuổi.
Xem thêm tin liên quan cùng chuyên mục: