- 1. Thời niên thiếu và duyên lành xuất gia
- 2. Sự tích về Phú Lâu Na
- 3. Vì sao Phú Lâu Na là Thuyết pháp đệ nhất?
- 4. Tiền kiếp của Phú Lâu Na
- 5. Ngài Phú Lâu Na những ngày cuối đời
1. Thời niên thiếu và duyên lành xuất gia
Phú Lâu Na là tên gọi vắn tắt của “Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử”, tên đầy đủ của Ngài là Purnamaitrayaniputra – Punnamantaniputta (danh hiệu ấy được dịch là “người đầy ắp tình thương).
Danh hiệu dài này còn là để tượng trưng cho tài thuyết pháp của Ngài thường kéo dài vô tận, như núi cao, như nước chảy; nó bộc lộ nhiệt tình vô biên, lòng từ vô cùng. Cho nên, nếu được dịch ra thì
Tuy nhiên, ngay từ nhỏ cậu bé đã sớm ý thức được rằng, tài sản vật chất cũng như tình thương yêu gia đình, đến một ngày nào đó cũng sẽ mất mát, cách chia, và quan yếu nhất cho đời người là phải tìm cho được một thứ tài sản cao quí, vĩnh cửu – đó là chân lí.
Với quyết tâm ấy, sau khi xuất gia không lâu, tôn giả đã chứng A La Hán – quả vị cao nhất của hàng Thanh Văn, dứt trừ hết mọi phiền não, thoát li sinh tử, có thể vận dụng thần thông để đi hành hoá khắp nơi một cách tự tại.
2. Sự tích về Phú Lâu Na
Sau khi chứng đắc quả A La Hán, Đức Phật cho Ngài chọn nơi đi thuyết pháp. Trong số các giáo khu phân bổ, Phú Lâu Na chưa thấy tên nước Du Na ( Suna ), một vùng biên địa rất hiểm trở, giao thông khó khăn, dân tình quen thói man rợ bạo ngược. Đó là một xứ mà trước kia người ngoài chỉ nghe tên chứ ít ai dám bước chân đến, vì sợ mất mạng, Phú Lâu Na bèn đề nghị với Phật xin cho Ngài đến đấy bô” giáo một phen.
– Vì mục đích bình đẳng độ sanh, thì bất cứ địa phương nào cũng đáng được lưu ý ngang nhau. Hơn nữa, dân tình chỗ nào càng man rợ bao nhiêu thì lại càng phải được thừa hưởng sự giáo hóa nhiều bây nhiêu. Như vậy mới thật là bình đẳng. Đối với đệ tử, nguy hiểm hay không nguy hiểm không thành vấn đề. Chỉ thành vấn đề là làm sao trên báo đáp được hồng ân Phật, dưới hóa độ được chúng sanh. Vì sứ mạng thiêng liêng cao cả ấy, thân này dù có tan xương nát thịt, tưởng cũng chưa vừa.
– Giả sử đến Du Na mà bị người mắng nhiếc nhục mạ thì ông nghĩ sao và đối tộ bằng cách nào?
– Kính bạch Thế Tôn! Đệ tử nghĩ như thế là họ còn quá tốt, chưa phải đã hoàn toàn dã man. Vì họ chỉ chửi mà không dùng gậy gộc đánh đuổi.
– Kính bạch Thế Tôn! Như thế họ vẫn tốt vì không nhẫn tâm gây thương tích cho đệ tử.
– Kính bạch Thế Tôn! Theo đệ tử như thế họ vẫn có chút lương tri, vì họ không nỡ giết hại đệ tử một cách oan uổng.
– Kính bạch Thế Tôn! Cũng chưa phải là người xấu, vì nếu họ chấm dứt cái thân hư ảo này của đệ tử thì đó chính là họ ban trợ cho đệ tử mau nhập Niết Bàn, đem đến cho đệ tử một cơ hội hiếm có, được mang thân mạng này báo đáp hồng ân Phật. Việc ấy nếu xảy ra, riêng đệ tử không những không ân hận mà lại còn hân hoan đón nhận. Có ân hận chăng là chỉ ân hận cho họ không được nghe chánh pháp mà thôi.
– Này Phú Lâu Na! Ông quả không hổ danh là một đại đệ tử chân chánh của ta. Hạnh tu đạo, hạnh bố giáo, hạnh nhẫn nhục của ông thật là viên mãn.
– Này các tỳ kheo ! muốn theo đuổi sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, nên có tinh thần như Phú Lâu Na. Phàm làm giảng sư đi bố giáo, cần hội đủ 10 đức tánh sau đây
- Thông hiểu giáo nghĩa.
- Nói năng lưu loát.
- Không e ngại, sợ hãi trước đám đông.
- Có biện tài vô ngại.
- Vận dụng phương tiện khéo léo.
- Biết tùy thuận hoàn cảnh và căn cơ chúng sanh.
- Có đầy đủ uy nghi.
- Tinh tấn dũng mãnh.
- Có sức khỏe thể xác và tinh thần.
- Hội đủ oai lực.
3. Vì sao Phú Lâu Na là Thuyết pháp đệ nhất?
Trong thập đại đệ tử của Đức Phật, tôn giả Phú Lâu Na không chỉ có “khế lí” và “khế cơ” mà còn có cả những đức tính đặc biệt khác nữa, cho nên đã được tôn xưng là người có tài thuyết pháp bậc nhất. Còn kể vào thứ bậc trong giáo đoàn, Ngài Phú Lâu Na được xếp vào hàng thứ ba trong Thánh chúng, sau Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.
Tôn giả lúc nào cũng tự bảo, nói pháp là vì chúng sinh và cho chúng sinh, chứ không phải là vì mình và cho chính mình. Nhờ những phương pháp giáo hóa khéo léo như vậy mà rất nhiều hạng người khác nhau trong xã hội đã có được cơ hội để qui y Tam Bảo, hành trì Phật pháp.
– Thưa quý vị, quý vị có thể chữa trị những cơn đau nhức, bệnh tật cho người đời, nhưng đối với những chứng bệnh nan y về tâm lí như bệnh tham lam, bệnh giận dữ, bệnh ngu si… thì quí vị có cách trị liệu nào không?
– Thưa đại đức, chúng tôi chỉ là thầy thuốc như chúng tôi có thể chữa trị những chứng bệnh của cơ thể như nhức đầu, đau bụng… còn những bệnh về tâm lí như tôn giả vừa nói thì chúng tôi không có cách gì trị được. Vậy đại đức có thể trị được không?
Vào thời vua Tần Bà Sa La vì nghiệp, bị con là vua A Xà Thế giam trong ngục thất, Ngài dùng thần thông vào ngục thuyết pháp cho vua, trấn an vua là ở nơi tù là nơi an ổn nhất để tu tập, người ở ngoài chính là người đang chôn mình trong ngục tù của tham sân si.Vua nghe những lời này như uống nước cam lồ, lời pháp thấm sâu vào con tim, vào A-lại-da thức và vua đã ra đi nhẹ nhàng.
- Pháp vô ngại: Hay còn gọi Pháp vô ngại trí: là người có khả năng lãnh ngộ giáo pháp, từng lời dạy của Đức Thế Tôn từ đơn giản đến thâm sâu một cách vô ngại.
- Nghĩa vô ngại còn gọi là Nghĩa vô ngại trí: lầu thông, rõ biết diệu nghĩa chi tiết từng lời pháp của Đức Thế Tôn để giảng giải cho chúng sanh một cách vô ngại.
- Từ vô ngại, còn gọi là Từ vô ngại trí: biết rành rẽ phương ngôn của các địa phương để thuyết giáo đi vào lòng người ở nơi đó một cách tự tại vô ngại.
- Biện vô ngại, còn gọi là Biện vô ngại trí, Nhạo thuyết vô ngại trí hay Ứng biện vô ngại: là khéo tùy thuận căn cơ, sự khao khát giáo pháp của thính chúng mà có thể ban pháp mầu một cách vô ngại.
4. Tiền kiếp của Phú Lâu Na
Lúc này Đức Phật đã khai thị:
Phú Lâu Na đã thâm nhập biển pháp mênh mông của Như Lai, có thể đem lại lợi ích cho tất cả những ai đang tu học, có thể nói rằng, trong pháp hội, trừ Như Lai ra, không ai có thể so sánh được với Phú Lâu Na về biện tài ngôn luận xảo diệu.
Hơn nữa, Phú Lâu Na không phải chỉ giúp Như Lai tuyên dương chánh pháp, trải qua chín mươi ức cõi Phật trong quá khứ, thầy cũng đã từng giúp các đức Phật tuyên dương chánh pháp, và cũng đều được khen ngợi là người thuyết pháp số một. Xin các Tỳ kheo hãy cùng nhìn về Phú Lâu Na và hãy tự làm cho mình tiến bộ như vậy.
5. Ngài Phú Lâu Na những ngày cuối đời
Tôn giả đau xót vô cùng, nhưng rồi cũng tự an ủi rằng, báo thân Phật tuy không còn, nhưng pháp thân Phật vẫn tồn tại; giáo pháp chính là đức Phật.
Nếu tám điều ấy bị cấm chỉ thì sẽ rất bất tiện cho tăng đoàn. Vả lại trước đây, gặp những lúc gạo thóc đắt đỏ, vật thực khó kiếm, hoặc xảy ra nạn đói thì đức Thế Tôn cũng đã từng cho phép áp dụng tám điều này.
(Tổng hợp)