- 1. Thân phận sánh vai ngang với nam giới
- 2. Được tự do yêu thương, kết hôn người mình muốn
- 3. Phẩm hạnh người phụ nữ được đề cao
- 4. Phụ nữ tự do tham gia tôn giáo
- 5. Bình đẳng về mặt giáo đoàn
- 6. Bình đẳng về mặt chứng đắc
Trong thời đức Phật, vị thế của phụ nữ trong xã hội gần như không được xem trọng, họ không bao giờ được hưởng chút quyền lợi gì. Dường như không ai có thể cứu họ khỏi “gông cùm” của định kiễn, xã hội.
May mắn là Đức Thế Tôn đã xuất hiện, giải phóng người phụ nữ khỏi những tư tưởng áp bức cố hữu, đã nâng vị thế cho họ và dắt dẫn họ thực hiện địa vị quan trọng của mình trong xã hội.
1. Thân phận sánh ngang với nam giới
Không chỉ xưa mà nay nhiều người vẫn không đánh giá vai trò của người phụ nữ đúng mực. Như ở Hồi giáo, người phụ nữ phải che mặt khi đi ra ngoài, chỉ chồng mới được nhìn thấy mặt, cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào anh ta.
Hay ở Trung Quốc thì có câu “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” nghĩa là chỉ cần một đứa con trai là có con, còn đẻ mười cô con gái coi như là chưa có con. Điều này dẫn đến một tư tưởng trọng nam khinh nữ, họ nghĩ có con gái là bất hạnh.
Theo Ngài, tất cả tánh thiện, ác, tốt, xấu… đều có cả trong hai giới, nam và nữ. Mỗi giới có vị trí riêng trong xã hội, dù nam hay nữ không còn là trở ngại cho việc thanh lọc thân tâm. Đấy cũng chính là tinh thần bình đẳng được thể hiện trong giáo lý Phật giáo.
Chuyện kể lại rằng, thời Đức Phật còn tại thế, có vua Ba Tư Nặc, vợ là Hoàng hậu Mạt Lợi, khi biết Hoàng hậu hạ sinh một cô công chúa thì ông buồn phiền vì trước đó ông ao ước có một đứa con trai.
Vua liền than phiền chuyện này với Đức Thế Tôn, hiểu được tâm tư của nhà vua, Ngài đã chia sẻ rằng những người nữ cũng đáng quý, tốt đẹp như người nam.
“Một phụ nữ trẻ có thể lớn lên khôn ngoan và đạo đức. Mẹ của chồng mình tôn trọng, vợ thật sự, chàng trai mà cô ấy có thể chịu đựng có thể làm những việc lớn, và cai trị các cõi lớn, vâng, một con trai của người vợ cao quý trở thành hướng dẫn của đất nước mình”.
2. Được tự do yêu thương, kết hôn người mình muốn
Trong Phật giáo, cái chết được coi là một kết thúc tự nhiên nên một góa phụ không có nghĩa là bị xem là điều xui xẻo hay xấu xa. Địa vị của phụ nữ trong Phật giáo không bị thay đổi theo bất kỳ cách nào.
Thế nên cô không cần thông báo cho mọi người biết mình cô quạ bằng cách cạo đầu và từ bỏ đồ trang sức của mình. Cô không bị buộc phải nhịn ăn vào những ngày cụ thể và ngủ trên sàn cứng để tự hành xác.
Theo tin thần Phật giáo, một người mất chồng cũng không phải vắng mặt trong các buổi lễ và các sự kiện tốt lành. Trên hết, cô vẫn được tái hôn nếu muốn, không bị kỳ thị.
Trong đời sống hôn nhân, mỗi người đều phải làm trọn bộn phận của mình, không ai thua kém ai. Trong kinh, Đức Phật đã dạy cách người chồng phải: Yêu thương vợ, không khinh rẻ, sắm đồ trang sức cho vợ, xem vợ như chính mình…. Bên cạnh đó, người phụ nữ phải: ân cần đón tiếp thân bằng quyến thuộc bên chồng; trung thành với chồng; cẩn thận giữ gìn tiền bạc của cải mà chồng đem về; luôn siêng năng…
Theo lời Phật dạy về hạnh phúc vợ chồng, có 2 việc tuy đơn giản nhưng lại đóng vai trò quyết định hạnh phúc của một gia đình, song không phải ai cũng làm tốt
3. Phẩm hạnh người phụ nữ được đề cao
Thế nhưng, Đức Phật lại tôn trọng, đề cao vai trò của họ trong gia đình. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Ngài không ghi nhận phẩm chất yếu đuối của họ.
Những gì Đức Phật nói về phụ nữ cho thấy Người hiểu nữ giới tới chân tơ kẽ tóc. Ngoài thiên chức đặc biệt của người mẹ, phụ nữ còn là biểu tượng của sức sống mãnh liệt, là cội nguồn yêu thương vô tận.
Đạo Phật còn nhấn mạnh tinh thần đề cao đức hạnh của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh tròn đầy được miêu tả là miệng lúc nào cũng nói lời chân thật, dùng ái ngữ, thể hiện sự dịu dàng,… Oai nghi cử chỉ đúng mực, hợp thời hợp lý, biết làm tròn bổn phận của mình.
Ở khía cạnh gia đình, người vợ đức hạnh chính là tài sản quý giá. Còn ở khía cạnh quốc gia, dân tộc, phu nhân có đức hạnh không chỉ là tài sản báu của nhà vua mà còn phước báu của đất nước.
Do đó, không phải tự nhiên Đức Phật nói một vị chuyển luân thánh vương cũng cần có phụ nữ ở bên cạnh giúp đỡ, săn sóc, hỗ trợ.
4. Phụ nữ tự do tham gia tôn giáo
Cho đến khi Đức Phật thành đạo, Ngài là người đầu tiên mang đến sự tự do tôn giáo đối với phụ nữ. Việc Ngài để cho phép phụ nữ dự vào hàng Thánh là tư tưởng vô cùng mới mẻ.
Đức Phật cho phép phụ nữ chứng minh bản thân và cho thấy rằng họ cũng có khả năng như nam giới để đạt được vị trí cao nhất trong lối sống tôn giáo với quả vị Thánh quả A La Hán.
Mọi người hay bàn luận về nhan sắc, quần áo của phụ nữ nhưng Đức Phật không bao giờ đánh giá vấn đề này. Ngài chỉ tập trung hướng dẫn nữ giới phát triển sự hiểu biết sâu sắc và khi hiểu ra vấn đề, họ sẽ tự nguyện từ bỏ các đồ trang sức của mình mà không cần ai thúc ép.
5. Bình đẳng về mặt giáo đoàn
Đức Phật không hề phân biệt nam nữ, không hề thiên vị một ai, dù sang hèn, giàu nghèo, đẹp, xấu; dù sanh trong giai cấp nào, hoặc dù nam hay nữ,… sau khi xuất gia sống đời Phạm hạnh cũng đều là Sa môn đệ tử Phật. Tấm lòng của Ngài bao dung như biển lớn đón nhận hàng trăm con sông đổ về mình.
Như vậy, về mặt giáo đoàn, quyền bình đẳng giành cho nữ giới cũng như về mặt giải thoát tâm linh người phụ nữ cũng được Phật giáo tiếp nhận một cách cởi mở.
6. Bình đẳng về mặt chứng đắc
Đức Thế Tôn nói: “Dầu cho các loại hữu tình nào, không có chân hay hai chân, bốn chân hay nhiều chân, có sắc hay không sắc, có tưởng hay không tưởng, hay phi tưởng phi phi tưởng, Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh đẳng giác được xem là tối thượng! Những ai đặt lòng tin vào đức Phật, chúng đặt lòng tin vào tối thượng. Với những ai đặt lòng tin vào tối thượng, chúng được quả dị thục tối thượng”.
Đức Phật khẳng định người nữ cũng có thể thành tựu các đạo quả như người nam, nếu thực tập đầy đủ chính Pháp. Họ cũng có thể thành tựu được các tầng Thánh quả như người nam.
Chỉ có điều, nữ giới không được làm Ma vương, không được làm Thiên chủ, không thành Phật trong thân nữ được, còn các Thánh quả khác là họ có thể thành tựu được hết.
Chính đức Phật đã xác định điều này khi ngài A Nan hỏi Phật: “Không biết nữ nhân sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình… có thể chứng được quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất lai hay quả A la hán không?”.
– Này Ananda, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A la hán quả.
Xem thêm tin liên quan cùng chuyên mục: