Ý nghĩa đẹp đẽ về loài voi
Vào một ngày trăng tròn, hoàng hậu Ma Da trong khi đang trì giới vesaka (một khóa chuyên tu đoạn thực), thì Bồ Tát Tất Đạt Đa từ cung trời Đâu Suất trong hình tướng một Bạch tượng sáu ngà giáng nhập vào bào thai của bà. Đó là khoảnh khắc đẹp đẽ Đức Phật hạ thế trong sắc tướng voi được người đời nhắc mãi.
Voi mang ý nghĩ rất đặc biệt thời bấy giờ, voi đóng vai trò cốt yếu trong chiến tranh, vận chuyển và được coi là biểu tượng hùng mạnh của một đất nước. Theo bố trí quân sự thông lệ lúc đó, nhà vua tổ chức bốn đội chiến binh, đội tượng binh là hàng tiên phong đóng vai trò như lá chắn khiên vững chắc, lớp thứ hai là đội kị binh, tiếp theo là cỗ xe chiến đấu, và bọc hậu sau cùng là đội bộ binh.
Loài voi vốn là một loài vật rất đặc biệt, một khi đã được huấn luyện thì đặc biệt vâng lời và trung thành với chủ nhân. Đặc biệt, voi trắng (bạch tượng) còn đại diện cho trí tuệ toàn hảo và quyền lực lãnh đạo của hoàng gia.
Sáu chiếc ngà tượng trưng cho lục độ vượt qua mọi chướng ngại, ma tà, qua đó phát huy những Ba la mật toàn hảo gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
Vì sao Đức Phật hạ thế trong sắc tướng voi
Người đàn ông vui lắm, cho chú voi ăn thỏa thích rồi sáng hôm sau trang trí nó thật lộng lẫy với rất nhiều nhung lua, trang sức vàng bạc, giống như trang hoàng cỗ xe hoàng gia. Người này trở thành người quản tượng ngồi trên cổ voi để điều khiển trong khi nhà vua ngồi trong chiếc hộp gỗ vuông có các cạnh được trang trí bằng bạc.
Người quản tượng cố gắng la hét, đánh nó bằng roi sắt nhưng con voi dường như không cưỡng được dục vọng, trở nên mất tự chủ và lồng lên. Lúc này cả vua và người người quản tượng vô cùng sợ hãi nên người này gợi ý cho vua bám chặt vào một nhánh cây và để cho con voi đi theo ý muốn của nó. Cả hai may mắn đã thoát nạn khi bám lấy một nhánh cây nhô ra ngoài để mặc cho con voi chạy theo voi cái.
Thần chỉ huấn luyện nó về sức mạnh thể chất và kỹ năng làm việc, chứ không huấn luyện nó về tâm trí và dục vọng, vì thần không biết cách huấn luyện những kỹ năng này. Nếu Bệ hạ tin thần, thần sẽ trừng phạt con voi của thần trước mặt Bệ hạ tại sân hoàng gia”.
Một tuần sau, con voi lầm lũi trở về với thái độ vô cùng hối hận, đầy mặc cảm tội lỗi trong khi đó họ đã chuẩn bị nung nóng một quả cầu sắt trong lửa để bắt voi ngậm như một hình phạt thích đáng với những gì nó gây ra.
Lúc này người quản tượng hét lên giận dữ và ra lệnh cho con voi quỳ xuống đất và há miệng ra. Con voi run rẩy, đôi mắt đãm lệ, nó há to miệng như chuẩn bị chấp nhận hình phạt của mình. Người quản tượng lúc này hơi chững lại, run rẩy và khóc thầm khi nghĩ đến nỗi đau đớn khủng khiếp mà con vật yêu quý phải chịu.
Thay vì ra lệnh trừng phạt con voi suýt làm nguy hại tới tính mạng của mình, nhà vua đã chọn cách mở tâm hồn mình cho lòng từ bi, sự cảm thông và tha thứ. Ngài nhận ra rằng, chúng ta cũng giống như con voi, đều có thể mắc phải những cơn đam mê mù quáng cho đến khi chúng ta tự hoàn thiện bản thân mình thông qua sự thiền định về tự tính tâm.
Nhà vua hỏi lại mọi người:
– Ai có thể đào luyện tâm và đoạn trừ dục vọng trong tâm? Trẫm sẽ rất vui khi biết về bất kỳ người nào không bị dục vọng chi phối và phát nguyện chính trẫm cùng toàn thể thần dân sẽ đi theo con đường của người đó.
– Người có thể hoàn toàn từ bỏ và loại trừ dục vọng và lòng tham, là người duy nhất hoàn toàn giác ngộ, được tôn xưng là Budda (Đức Phật), người đã thấu triệt bản chất tính không của vạn pháp, đã hoàn toàn thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Nghe tới từ Đức Phật, Ngài có cảm giác rùng mình và khao khát đạt được giác ngộ trong tương lai và dâng lời cầu nguyện: “Nguyện con sẽ trở nên giống như Đức Phật vì lợi ích của tất cả chúng sinh”.
Đây là thời điểm mà Đức Phật phát khởi Bồ đề tâm khi Ngài là một vị vua trong kiếp trước của mình.